Tiền thân A Nan: Trong vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, bấy giờ chúng Tỳ kheo vây quanh với nhau mà bàn luận rằng: “Không rõ hiền giả A Nan vào thời quá đã tu tập công đức gì, mà đời này, hiền giả hiểu sâu biết rộng, nhớ dai và đẹp đẽ quá vậy?”.
Các Tỳ kheo nghĩ rồi bèn đi đến bạch Phật:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con chẳng hiểu đời trước của hiền giả A Nan đã tu tập công đức gì mà hiền giả được làm thị giả Thế Tôn, và thông minh đĩnh ngộ quá vậy? Xin Thế Tôn ân cần chỉ giáo cho chúng con sáng tỏ.
- Này các Tỳ kheo, hãy lắng kỹ. Vào thời quá khứ, có một vị Tỳ kheo, nuôi một chú Sa Di, ngày ngày bắt chú phải tụng kinh và đủ thời. Vì vậy mà khi nào chú Sa Di tụng kinh đủ thời đã qui định thì vị Tỳ kheo vui vẻ, khen thưởng cho chú Sa Di, còn khi nào bận công việc mà chú Sa Di tụng trễ hoặc thiếu thời khóa thì vị Tỳ kheo ấy buồn hiu, và quở trách chú Sa Di nữa.
Vì trách nhiệm như vậy nên lúc nào chú Sa Di cũng lo lắng và sợ sệt, vì ngoài công việc tụng kinh ra, chú còn phải đi khất thực suốt buổi sáng nữa. Có khi đàn việt vui lòng cúng dường nhiều thì được về sớm, rồi lo tụng kinh. Còn khi nào ít người cúng dường thì chú phải đi khất thực cho đủ hai phần ăn, như vậy là đã trưa rồi, làm sao tụng kinh được nữa. Vì vậy ăn thì mất tụng, được tụng thì mất ăn.
Thực tế đã xảy ra là hôm nay chẳng may ít ai cúng dường quá, nên chú về trễ, đành bỏ thời tụng buổi sáng, vì vậy mà bị thầy quở trách, buồn quá sang ngày hôm sau, vừa đi khất thực vừa khóc. Khi ấy, gặp ông Trưởng giả, ông ta hỏi:
- Có việc gì mà chú lại khóc lóc vậy?
Thưa trưởng giả, thầy tôi thật nghiêm khắc, bắt tôi phải tụng kinh đủ thời giờ thầy tôi đã qui định, nhưng khổ nỗi, tôi còn phải đi khất thực nữa, ngày nào đàn việt thương nhiều thì tôi được về sớm và tụng kinh đầy đủ, còn chẳng may ít người bố thí thì tôi phải trở về trễ, như vậy là bỏ mất thời tụng kinh và chắc chắn bị thầy quở trách, vì vậy mà tôi buồn tôi khóc.
- Tưởng gì chứ thầy muốn chú sốt sắng tu hành như vậy thì tốt quá. Ðược rồi, kể từ nay về sau, đến giờ chú cứ đến nhà tôi lấy thức ăn về cho hai thầy trò đủ dùng, còn hầu hết các thì giờ chú cứ việc lo tụng kinh niệm Phật cho đúng thời khóa đã qui định, đừng buồn việc khất thực xin ăn gì nữa.
Như vậy kể từ hôm đó, tới bữa chú Sa Di mang bình bát tới nhà ông trưởng giả để mang đồ ăn về cho hai thầy trò dùng, còn bao nhiêu thì giờ chú đều chuyên tâm trong việc tụng kinh niệm Phật tu hành đầy đủ, nhờ đó mà cả hai thầy trò đều vui vẻ.
Ðến đây, Ðức Thế Tôn nhắc lại:
- Này các Tỳ kheo, các thầy biết không, vị Tỳ kheo của chú Sa Di đó chính là Ðức Phật Ðịnh Quang, ông trưởng giả cúng dường thức ăn, hàng ngày chính là Ta, còn chú Sa Di tụng niệm đó chính là A Nan bây giờ.
A Nan nhờ phước báu tụng kinh đời trước mà đời này trí tuệ đa văn, nhớ rõ từng câu kinh chẳng sai một chữ và thừa Phật trùng tuyên giáo pháp.
Thân thế: A Nan chào đời trong đêm Phật thành đạo, nên còn có tên là Khánh Hỷ, thuộc dòng dõi quý tộc, nơi vương cung của vua Bạch Phạn, là em ruột của Ðề Bà Ðạt Ða mà cũng là anh em chú bác của Thế Tôn.
Trong hạng đồng thời đó, Ngài A Nan là người nhỏ tuổi nhất, nếu so với La Hầu La thì còn nhỏ thua nửa số tuổi.
Là một Thế tử được vua cha chiều chuộng, bảo bọc, đời sống vương giả chẳng thiếu một món gì, nhưng đối với tánh tình thuần hậu, hoan hỷ đó, A Nan không quyến luyến những vật dục, sang giàu của hoàng cung, cùng chơi đùa với chúng bạn chẳng phân giai cấp. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng với tư cách một con vua, bẩm tính sẵn có lúc nào A Nan cũng vui vẻ, hiền hòa, dễ thương đáo để.
Vì đời sống của một phước báo tiền kiếp xa xưa, nên đã trưởng thành A Nan một con người khôi ngô, tuấn tú. Về sau này, có thể nói trong hàng đệ tử Phật, A Nan là người đẹp đẽ, đoan trang nhất, với thân hình cân đối, nét mặt hào hoa, tươi nhuận, lúc nào cũng tỏ ra dễ dãi với mọi người. Vì sự đẹp trai và tánh tình dễ dãi ấy mà sau này có lắm chuyện rắc rối đã đến với A Nan.
Gia nhập Tăng đoàn:
Ngày Thế Tôn trở về thăm Ca Tỳ La Vệ đầu tiên, trong dáng đi trầm hùng, sắc diện trang nghiêm, dung mạo rực rỡ, chiếu diện như vầng trăng lồng lộng giữa khoảng trời bao la, đã soi sáng mọi vật, cảm hóa được lòng người. Chú bé A Nan nhìn say sưa dung nhan thậm kỳ diệu, sắc diện như núi vàng đoan nghiêm của Thế Tôn cảm thấy chấn động tâm linh, bèn vào trình vua cha xin đi xuất gia theo Phật cùng với bảy vương tử thời bấy giờ. Ðược vua cha chấp nhận, trong lòng hoan hỷ vô cùng, như vậy kể từ đây A Nan theo sát chân Phật, là một người tùy tùng thân cận với Ðức Thế Tôn, và sau này, chẳng bao lâu được đại chúng cử làm thị giả hầu hạ Phật.
Thị giả:
Bấy giờ, các Tỳ kheo, Trưởng lão thượng tôn danh đức, đại đệ tử của Phật được mọi người hiểu biết: Tôn giả Câu Lan Nhã, Tôn giả A Nhiếp Bối, Tôn Giả Bạt Ðề Thích Ca Vương, Tôn giả Ma Ha Nam Câu Lệ, Tôn giả Hòa Phá, Tôn giả Da Xá, Tôn giả Bân Nậu, Tôn giả Duy La Ma, Tôn giả Già Hòa Ba Ðề, Tôn giả Na Ðề, Tôn giả Kim Tỳ La, Tôn giả Ly Bà Ða, Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên, Tôn giả Ðại Ca Diếp, Tôn giả Ðại Câu Hy La, Tôn giả Ðại Châu Na, Tôn giả Ðại Ca Chiên Diên, Tôn giả Bân Nậu Gia Nậu Tả Trưởng lão, Tôn giả Da Xá hành trù trưởng lão, rất nhiều các Tỳ kheo Trưởng lão, danh đức đại đệ tử cùng đi du hóa tại thành Vương Xá, tất cả đều ở xung quanh ngôi nhà lá của Phật.
Lúc ấy Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng:
- Này các thầy, hiện nay ta tuổi đã già, thân thể càng ngày càng suy yếu, nên ta cần có một thị giả nhất định để chăm sóc và mang y bát cho ta, làm vừa lòng ta và ghi nhớ những lời thuyết pháp rõ ràng, không quên nghĩa lý. Vậy các thầy hãy chọn giùm Ta một vị.
Nghe vậy, Tôn giả Câu Lan Nhã, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo sửa y chắp tay hướng về Thế Tôn, bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, con tự nguyện hầu hạ Thế Tôn, làm vừa lòng Thế Tôn và ghi nhớ rõ ràng những lời Thế Tôn dạy.
- Này Câu Lan Nhã, thầy tuổi đã già rồi thân thể chẳng hơn gì Ta, như vậy, chính thầy cũng cần có một thị giả, để chăm sóc hầu hạ thầy trong cơn bịnh hoạn, thôi được thầy hãy về chỗ cũ ngồi đi.
Bấy giờ, các Trưởng lão tôn túc lần lượt bạch Thế Tôn để xin tự nguyện làm thị giả hầu Thế Tôn, nhưng cuối cùng tất cả đều được Thế Tôn bảo hãy lui về chỗ cũ mà ngồi.
Kết quả cuộc tự nguyện làm thị giả, chẳng có vị nào được Thế Tôn ghi nhận, Tôn giả Mục Kiền Liên, suy nghĩ: “Ðức Thế Tôn muốn chọn vị nào làm thị giả, ý Ngài đặt vào vị nào muốn cho ai săn sóc Ngài, tự nãy đến giờ chẳng có vị Tỳ kheo nào được diễm phúc ấy cả, có lẽ ta nên nhập “Như Kỳ Tượng Ðịnh” để quan sát tâm của đại chúng xem sao. Thế là Tôn giả nhập “Như Kỳ Tượng Ðịnh” xem từng tâm niệm của đại chúng Tỳ kheo, lần lượt, lần lượt, đến Ngài A Nan Tôn giả dừng lại, đây rồi, Thế Tôn đang hướng đến A Nan, muốn chọn A Nan làm thị giả, liền xuất định, Tôn giả Mục Kiền Liên thưa với đại chúng rằng:
- Thưa chư hiền, đức Thế Tôn muốn chọn hiền giả A Nan làm hiền giả, ý Ngài đã đặt vào A Nan để thỉnh làm thị giả. Nói xong các vị thượng tôn trưởng lão, cùng Tôn giả Mục Kiên Liên đồng đi đến chỗ A Nan, tất cả đều chào hỏi rồi ngồi xuống. Lúc ấy, Tôn giả Mục Kiền Liên đại diện trình bày:
- Này hiền giả A Nan, thầy thật là diễm phúc, thầy có biết không đức Thế Tôn muốn chọn thầy làm thị giả đó, để săn sóc Thế Tôn, khi mang y, khi dâng bát và ghi nhớ những lời Thế Tôn giảng giải rõ ràng nghĩa lý. Cũng như ngoài thôn xóm không xa, có một tòa lâu đài to lớn, cửa sổ ở phía đông mở ra, khi mặt trời mọc lên, ánh sáng sẽ rọi thẳng vào vách phía tây, Này hiền giả A Nan, đức Thế Tôn cũng vậy, chú ý muốn thầy hầu Thế Tôn. Vậy thầy nên làm thị giả mà săn sóc Thế Tôn được phước hựu lớn.
- Thưa Tôn giả Mục Kiền Liên, tôi không thể lãnh trách nhiệm hầu hạ Thế Tôn nổi. Vì đối với các đức Thế Tôn, khó xứng ý, khó hầu hạ, nghĩa là khó làm thị giả lắm, xin Tôn giả thông cảm cho tôi. Cũng giống như con voi rất hùng mạnh, đã hơn 60 tuổi, kiêu bạo, sức mạnh cường thạnh, đủ ngà, đủ vóc, khó mà làm cho xứng ý gần gũi, chăm sóc được. Thưa Tôn giả với những bậc Như Lai Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác cũng vậy, khó làm vừa lòng và gần gũi của một trách nhiệm thị giả được.
- Này hiền giả A Nan, chưa chi sao vội từ chối quá vậy, Thầy hãy nghe tôi ví dụ thì sẽ hiểu rõ ý nghĩa, cũng như hoa Ưu Ðàm Bát La đúng thời mới xuất hiện thế gian, thì đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác cũng vậy, đúng thời Như Lai mới thị hiện ra đời, vậy Thầy còn chần chờ gì nữa, hãy mau làm thị giả đức Thế Tôn đúng lúc?
Bị Tôn giả Mục Kiền Liên ép nài, A Nan túng thế phải chịu, nhưng với những điều kiện như sau, nếu Thế Tôn thỏa mãn:
- Thưa Tôn giả, nhờ Tôn giả bạch lại Thế Tôn, nếu Thế Tôn thỏa mãn cho ba điều nguyện của tôi, thì chừng ấy tôi mới chịu làm thị giả, bằng không thì thôi. Một, tôi nguyện không đắp y của Thế Tôn dù mới hay cũ; hai, tôi nguyện không ăn thực phẩm biệt thỉnh của Thế Tôn; ba, tôi nguyện không gặp Thế Tôn chẳng đúng lúc.
Thấy A Nan đã chịu làm thị giả rồi, Mục Kiền Liên cùng các vị trưởng lão, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Tôn giả A Nan ba vòng rồi đi về chỗ Phật, làm lễ xong, ngồi xuống một bên, Tôn giả Mục Kiền Liên liền thuật lại sự việc:
- Bạch Thế Tôn, vừa rồi con đã khuyên dụ hiền giả A Nan làm thị giả cho Thế Tôn, nhưng hiền giả A Nan đã xin Thế Tôn thỏa thuận cho ba điều tự nguyện: Không đắp y của Thế Tôn, dù mới hay cũ, không ăn thực phẩm biệt thỉnh của Thế Tôn và không gặp Thế Tôn chẳng đúng thời. Nếu Thế Tôn cho phép A Nan được ba điều ấy thì A Nan mới làm thị giả hầu Thế Tôn.
- Này Ðại Mục Kiền Liên, Tỳ kheo A Nan thông minh, trí tuệ, dự đoán biết trước có những lời tỵ hiềm, hoặc các vị đồng phạm hạnh sẽ cho rằng: “A Nan vì cơm áo mà hầu hạ đức Thế Tôn”. Ðây là pháp vị tằng hữu của A Nan.
Tỳ kheo A Nan thông minh dự đoán biết trước những lời tỵ hiềm: “A Nan vì thực phẩm nên hầu hạ Thế Tôn”.
Tỳ kheo A Nan khéo biết thời, khéo phân biệt được thời, khéo biết lúc nào tự mình cần gặp đức Như Lai. Lúc nào nên cho và không nên cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, chúng Ưu Bà Tắc, chúng Ưu Bà Di, hay Sa môn Phạm Chí, dị học đến gặp Như Lai, thuận lợi hay không thuận lợi. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm mà đức Như Lai thường dùng được an ổn, và loại thức ăn nào đức Thế Tôn dùng rồi không được an ổn, nhẹ nhàng.
Tỳ kheo A Nan mặc dù chưa có tha tâm trí, nhưng có thể biết trước được đức Như Lai sẽ thuyết pháp cho ai, khi Như Lai từ chỗ tỉnh tọa dậy, vào buổi xế, hôm nay đức Như Lai sẽ làm như vậy, sẽ hiện pháp lạc thọ như vậy, nhận xét đúng lời Thế Tôn nói, chắc chắn không thể sai khác. Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi đã hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm, trong thời gian đó tôi chưa hề khởi tâm cao ngạo bao giờ”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi đã hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm cho đến ngày hôm nay tôi chưa hề gặp đức Thế Tôn chưa phải lúc”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi đã hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm, chưa hề bị Phật quở trách, trừ một lỗi, nhưng lỗi đó cũng vì người khác”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi theo đức Thế Tôn thọ trì tám vạn pháp tu, thọ trì không quên, không bao giờ khởi tâm cống cao, tự đắc”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi theo đức Thế Tôn thọ trì tám vạn pháp tu, chưa hề hỏi lại một lần thứ hai, trừ có một câu, câu ấy như vậy cũng không phải dễ”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, tôi theo đức Thế Tôn thọ trì tám vạn pháp tu, trước hết không có tâm này: tôi thọ trì pháp ấy là để giáo hóa cho người khác. Này chư hiền, tôi chỉ muốn tự điều ngự, tự tịch tịnh, tự bát Niết Bàn thôi”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, có điều rất kỳ lạ này, đó là bốn bộ chúng đi đến chỗ tôi để nghe pháp, nếu tôi vì thế mà khởi tâm cống cao, điều ấy chắc chắn không thể có được. Tôi cũng không hề tác ý trước, để khi có người đến hỏi, thì tôi trả lời như vầy: này chư hiền, bây giờ tôi ngồi đây, rồi tùy theo phía của người kia hỏi mà ứng đối”.
Khi A Nan nói như vầy: “Thưa chư hiền, có điều rất kỳ lạ này: đó là có số Sa môn, Phạm Chí, dị học đến hỏi việc nơi tôi, nếu vì thế mà tôi sợ sệt, hãi hùng, lông tóc dựng đứng, không thể có sự kiện đó. Tôi cũng không hề tác ý trước để khi có người đến hỏi thì tôi sẽ trả lời như vầy: thưa chư hiền, bây giờ tôi ngồi đây, rồi theo nghĩa ấy mà ứng đối”.
Lại nữa, có một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A Nan, trụ tại nước Xá Vệ, trong núi Bà La Là. Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi rằng: “Này hiền giả A Nan, thầy hầu hạ Thế Tôn suốt 25 năm, thầy nhớ có lần nào khởi dục tâm không?”.
- Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất, tôi còn là hàng hữu học, chưa ly dục.
- Này A Nan, tôi không hỏi thầy là bậc hữu học hay vô học, tôi chỉ hỏi thầy suốt 25 năm qua, thầy hầu hạ bên đức Thế Tôn có khi nào Thầy khởi dục tâm không?
Xá Lợi Phất hỏi ba lần như vậy, thì A Nan cũng trả lời ba lần như vậy. Khi ấy Tôn giả Mục Kiền Liên ngồi một bên nắm chéo áo A Nan thúc mà nói:
- Hiền giả A Nan đáp nhanh đi, hiền giả đáp nhanh đi, đừng xúc nhiểu đến bậc thượng tôn trưởng lão mà tội.
- Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất, tôi hầu hạ đức Thế Tôn suốt 25 năm, tôi nhớ lại chưa hề khi nào phát khởi dục tâm, vì tôi thường hướng đến Thế Tôn và các vị đồng phạm hạnh với tâm niệm hổ thẹn.
Lại nữa, có một thời đức Thế Tôn du hóa tại thành Vương Xá, trụ trong Nham Sơn. Bấy giờ Thế Tôn bảo:
- Này A Nan, thầy nên nằm như cách nằm của sư tử chúa.
- Bạch Thế Tôn, sư tử chúa nằm như thế nào?
- Sư tử chúa ban ngày đi tìm ăn, xong rồi vào hang, khi muốn ngủ, bốn chân xếp chồng lên phải. Qua đêm ấy, đến sáng hôm sau, quay ra nhìn thân thể, nếu như sư tử thấy thân thể mình không ngay ngắn thì chẳng ưng, buồn bã, còn nếu ngay ngắn tròn trịa thì hớn hởn vui mừng, nó từ chỗ nằm đứng dậy, ở trong hang đi ra, đi ra rồi vươn mình, vươn mình rồi tự ngắm thân thể, tự ngắm thân thể xoay nhìn bốn hướng, xoay nhìn bốn hướng rồi liền rống lên vài ba tiếng, rồi đi tìm ăn, cách thức nằm của sư tử chúa là như vậy.
- Bạch Thế Tôn, đó là cách nằm của sư tử chúa, còn cách nằm của Tỳ kheo thế nào?
- Nếu Tỳ kheo trụ nơi thôn ấp, qua một đêm đến sáng hôm sau, khoát y ôm bát, đi vào thôn khất thực, khéo hộ trì thân thể, nhiếp thủ các căn, trụ nơi chánh niệm. Vị ấy từ thôn ấp lần lượt khất thực xong, thâu bát xếp y, rửa sạch tay chân, vắt ni sư đàn lên vai đi đến chỗ rừng vắng hoặc đến dưới gốc cây, hoặc trong nhà trống, hoặc kinh hành, hoặc tọa thiền, trừ các phép chướng ngại trong tâm. Ban ngày đã tịnh trừ chướng ngại trong tâm, rồi lại vào đầu hôm, tinh tấn tọa thiền, tư duy để thân tâm được vắng lặng, cho đến nữa đêm, xã thiền đi vào tịnh thất đất nằm, xếp làm bốn Uất Ða La Tăng trải lên giường, gấp đôi Y Tăng Già Lê làm gối, nằm xuống phía hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau, ý buộc vào mình tưởng chánh niệm, chánh trí, hằng hướng đến ý tưởng sẽ ngồi dậy. Khi đêm đã qua, mau ngồi dậy, đi kinh thành, hoặc tọa thiền để tịnh trừ sự chướng ngại của tâm. Như vậy là cách nằm sư tử của Tỳ kheo. Kể từ đó A Nan nằm xuống như sư tử chúa không hề có lần nào nằm về hướng bên trái.
Lại nữa, có lúc đức Thế Tôn du hóa Câu Thi Na Kiệt, trụ trong rừng Ta La của Hòa Bạt Ðam lực sĩ. Bây giờ là lúc tối hậu, đức Thế Tôn muốn thủ bát Niết bàn, Thế Tôn bảo:
- Này A Nan, thầy hãy đi đến giữa hai cây Ta La song thọ, trải một giường nằm, đầu quay về hướng bắc cho Như Lai, vì nữa đêm hôm nay Như Lai sẽ bát Niết bàn.
Tôn giả A Nan vâng lời, liền đến giữa hai cây Ta La, trải giường nằm, trải xong trở về đức Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, đứng sang một bên, bạch Thế Tôn:
- Con đã trải giường nằm, quay đầu về hướng bắc cho Như Lai, ở giữa hai cây Ta La song thọ rồi, kính mong Như Lai tự quyết.
Bất giờ Thế Tôn dẫn A Nan đến giữa hai cây Ta La song thọ, xếp làm bốn Uất Ða La Tăng trải lên giường, gấp đôi Y Tăng Già Lê làm gối, nằm về phía hông bên phải, hai chân chồng lên nhau.
Lúc tối hậu, Thế Tôn sắp bát Niết bàn, Tôn giả A Nan quạt hầu Phật giơ tay gạt nước mắt, nghĩ như vầy: “Trước kia có đại chúng Tỳ kheo ở các nơi muốn đến thăm viếng đức Thế Tôn để cúng dường, lễ bái thì đều có thể tùy lúc mà được thăm viếng, cúng dường, lễ bái. Bấy giờ họ nghe được Thế Tôn sắp bát Niết bàn thì sẽ không còn đến thăm viếng, cúng dường Thế Tôn nữa”.
Khi ấy đức Thế Tôn hỏi các Tỳ kheo: “Tỳ kheo A Nan giờ ở đâu?”
Bạch Thế Tôn, A Nan đang cầm quạt hầu Phật và khóc lóc nghĩ ngợi.
- Này A Nan, thầy chớ khóc lóc, cũng chớ buồn rầu, vì thầy hầu hạ Ta thân hành từ hòa, khẩu và ý hành từ hòa, chưa từng có hai tâm, an lạc vô lượng, vô biên, vô hạn. Này A Nan, trong đời quá khứ, các bậc Như Lai, Vô Sở Trước, Chánh Ðẳng Chánh Giác có người thị giả hầu cận, thì cũng không thể hơn thầy được, nay Ta là bậc Như Lai, Ứng Cúng trong đời hiện tại, nếu có người thị giả nào thì người thị giả đó cũng không thể hơn thầy được, vì thầy khéo biết thời, khéo phân biệt thời, điểm và hiểu biết ý Như Lai trong mọi trường hợp.
Bấy giờ Thế Tôn muốn làm cho Tôn giả A Nan vui vẻ, bèn bảo các Tỳ kheo rằng:
- Vị chuyển Luân Thánh Vương có bốn pháp vị tằng hữu, mà mỗi khi các hàng Sát đế lợi, cư sĩ hoặc Sa môn đến yết kiến, Chuyển Luân Thánh Vương dù nói hay im lặng, họ thấy mặt đều sanh tâm hoan hỷ, vui vẻ. Tỳ kheo A Nan cũng vậy, A Nan có bốn pháp vị tằng hữu mà mỗi khi chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đến tham vấn thì dù A Nan có nói hay im lặng, họ thấy A Nan rồi thì liền sanh tâm hoan hỷ, vui mừng.
Lại nữa, A Nan thuyết pháp cho đại chúng có bốn điểm vị tằng hữu. Mỗi khi A Nan thuyết pháp cho chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, bằng lời chí tâm thành kính, cả chúng nghe rồi nghĩ như vầy: “Mong Tôn giả A Nan thuyết pháp không dừng lại nữa chừng”.
Khi nghe Tôn giả A Nan thuyết pháp, các chúng hoàn toàn tâm không chán nản, và Tỳ kheo A Nan vẫn ngồi im lặng.
Lại nữa thuở ấy, Thế Tôn đã bát Niết bàn chưa được bao lâu, A Nan du hóa tại Kim Cang, trụ ở thôn Kim Cang. Bấy giờ thuyết pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng vây quanh. Hiện đó, có Tôn giả Kim Cang Tử cũng ở trong chúng, Tôn giả trong lòng suy nghĩ: “Hiền giả A Nan vẫn còn là bậc hữu học chưa ly dục sao, ta thử nhập Như Kỳ Tượng Ðịnh để quan sát tâm A Nan như thế nào?”. Nghĩ rồi bèn nhập định, Tôn giả biết A Nan vẫn còn là bậc hữu học chưa ly dục, Tôn giả liền xuất định hướng về A Nan, nói bài tụng:
Núi rừng vắng tư duy
Niết bàn khiến vào tâm
Thiền Cù Ðàm không loạn
Sẽ sớm chứng tịch tịnh.
Bấy giờ A Nan nghe lời dạy của Tôn giả Kim Cang Tử, rời bỏ chỗ đông người, sống một mình nơi yên tĩnh, tinh tấn không tán loạn, thời gian chẳng bao lâu các lậu dũ sạch, cho đến khi vừa mới nghiêng đầu chưa đụng gối lòng bổng nhiên khai ngộ, chứng tâm giải thoát. Nếu Tôn giả A Nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của A Nan.
Nếu sau khi chứng tâm giải thoát rồi, A Nan nói rằng: “Tôi sẽ ngồi kiết già để bát Niết bàn, thì đó chính là pháp vị tằng hữu của A Nan”.